Tác dụng việc giảm nhẹ các tác dụng phụ do thuốc chống ung thư ở chuột không có khối u của hợp chất tương quan hexose (AHCC)

Tác dụng việc giảm nhẹ các tác dụng phụ do thuốc chống ung thư ở chuột không có khối u của hợp chất tương quan hexose (AHCC)

Kota Shigama, Akihiro Nakaya, Koji Wakame, Hiroshi Nishika và Hajime Fujii

Amino Up Chemical Co., Ltd., 363-32 Shin-ei, Kiyota, Sapporo 004-0839, Japan

TÓM TẮT

Hợp chất tương quan hexose hoạt tính (AHCC) là một chiết xuất của nấm đảm, được sử dụng như một thực phẩm bổ sung bởi một số bệnh nhân ung thư điều trị bằng hóa trị liệu; hợp chất này được cho là tăng cường hiệu quả điều trị và giảm tác dụng phụ của tác nhân chống ung thư lựa chọn. AHCC được báo cáo là làm tăng tác dụng chống ung thư của cisplatin (CDDP) và cải thiện các tác dụng phụ của thuốc này ở chuột BALB/cA cái được tiêm tế bào ung thư Colon-26. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm hiểu vai trò của AHCC trong việc giảm nhẹ các tác dụng phụ gây ra do nhiều thuốc chống ung thư khác ở chuột không có khối uđược áp dụngchỉ một phương pháp trị liệu bằng paclitaxel (TAX), hoặc hóa trị liệu đa thuốc với TAX kết hợp CDDP, 5-fluorouracil (5FU) kết hợp irinotecan, CDDP kết hợp 5FU, hoặc doxorubicin kết hợp cyclophosphamide. Kết quả thu được từ các nhóm điều trị thuốc có và không bổ sung AHCC được so sánh với nhóm đối chứng chỉ được cung cấp tá dược lỏng. Việc điều trị kết hợp nhiều thuốc làm giảm đáng kể khả năng sống sót tế bào tủy xương ở tất cả các nhóm và số lượng bạch cầu ở tất cả các nhóm ngoại trừ nhóm TAX+CDDP; AHCC nói chung làm giảm nhẹ các tác dụng ức chế tủy. AHCC cũng cải thiện đáng kể tác dụng gây độc trên gan và thận gây ra do sử dụng TAX và CDDP. Tỷ lệ tử vong là 20-30% ở tất cả các nhóm điều trị ngoại trừ TAX+CDDP, và việc bổ sung AHCC làm giảm hoặc hạn chế đáng kể tỷ lệ tử vong. Các kết quả này củng cố quan điểm rằng AHCC có thể có lợi cho các bệnh nhân ung thư được hóa trị liệu.

GIỚI THIỆU

Tỷ lệ mắc ung thư được báo cáo là ngày càng cao ở nhiều nước bao gồm cả Nhật Bản (1,2). Hóa trị liệu đóng một vai trò quan trọng trong điều trị nhiều loại ung thư như ung thư máu ác tính. Tuy nhiên, hóa trị liệu thường gây khó khăn cho bệnh nhân, một phần do rất nhiều tác dụng phụ bao gồm rụng tóc, gây độc máu và dạ dày – ruột non, gây độc gan, gây độc thận, và gây độc thần kinh. Các tác dụng phụ này làm giảm chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân ung thư, và chúng thường dẫn đến giảm liều, tần suất và thời gian hóa trị liệu, ngay cả khi chưa thu được hiệu quả điều trị tốt nhất. Hơn nữa, hóa trị liệu gây ra tình trạng kiệt sức nặng, lo lắng và suy sụp ở hầu hết các bệnh nhân ung thư (3). Trong khi các thuốc chống ung thư chiến lược hiện nay tập trung vào các tác nhân hướng phân tử với tính chọn lọc cao, như gefitinib (4,5) và erlotinib (6) là các chất ức chế thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì, các thuốc này vẫn đi kèm với nhiều vấn đề, bao gồm các tác dụng phụ trên da (7,8) và mắt (9).

Một cách tiếp cận để giảm nhẹ các tác dụng phụ do hóa trị liệu là sử dụng các thuốc bổ sung và chọn lọc (CAM) mà đã nhận được nhiều sự chú ý. Nhiều bệnh nhân sử dụng CAM với hy vọng giảm các tác dụng phụ của thuốc chống ung thư, và để thu được thêm các tác dụng chống ung thư thông qua tác dụng thúc đẩy hệ miễn dịch (10-13). Một cuộc khảo sát ở Nhật Bản cho biết tỷ lệ sử dụng CAM là 44.6% ở bệnh nhân ung thư, phần lớn liệu pháp CAM được sử dụng thường xuyên là các thực phẩm bổ sung từ nấm như nấm mũ agaricus (Agaricus Blazei Murill) và hợp chất tương quan hexose hoạt tính (AHCC) (14).

AHCC là hỗn hợp của các polysaccharide, amino acid, lipid và chất khoáng thu được từ bào tử nuôi cấy của nấm đảm, Lentinula edodes (nấm hương). Thành phần trội hơn của AHCC là các oligosaccharide, bao gồm các α-1,4-glucan và một phần các α-1,4-glucan được acetyl hóa với trọng lượng phân tử trung bình là 5000 Da. Các nghiên cứu viên đã thông báo rằng AHCC có thể làm tăng số lượng và chức năng của các tế bào tua và hoạt tính của tế bào NK ở người trưởng thành (15,16), và tăng cường cả sự hoạt hóa và tăng sinh của các tế bào T CD4+ và CD8+ ở chuột (17). Ở các mẫu động vật gặm nhấm mang khối u, AHCC tăng cường hiệu quả hóa trị liệu của UFT và cisplatin đối với các tế bào ung thư tuyến SST-2 của động vật có vú và các tế bào khối u Colon-26, tương ứng (18,19). AHCC được báo cáo là an toàn cho con người, dựa trên các kết quả của nhiều nghiên cứu tiền lâm sàng và nghiên cứu pha I sử dụng tình nguyện viên khỏe mạnh (20). Không quan sát thấy tác dụng ức chế hoạt tính của CYP450 khi có mặt AHCC, mà, AHCC là một cơ chết của CYP450 2D6. Các thử nghiệm chuyển hóa cảm ứng CYP450 cho thấy AHCC là tác nhân cảm ứng của CYP450 2D6. AHCC có khả năng đối với các tương tác thuốc-thuốc có sự tham gia của CYP450 2D6 như ondansetron, tuy nhiên tổng thể cho thấy AHCC an toàn khi cung cấp với hầu hết các tác nhân hóa trị liệu không bị chuyển hóa thông qua con đường CYP450 2D6 (21). Hơn nữa, hai nghiên cứu lâm sàng trên các bệnh nhân ung thư gan cho thấy sự tăng đáng kể tỷ lệ sống sót ở những người sử dụng AHCC (22,23).

Trong khi tác dụng điều hòa miễn dịch và chống khối u của AHCC đã được chứng minh, tác dụng của AHCC lên tính độc do thuốc chống ung thư vẫn chưa được xác định rõ. Trong ngiên cứu này, chúng tôi khảo sát ảnh hưởng của AHCC lên một số tác dụng phụ gây ra bởi đơn trị liệu với paclitaxel, hoặc hóa trị liệu kết hợp nhiều thuốc ở chuột không mang khối u, mà không phải là chuột mang khối u để ước tính sự thay đổi thể trọng nội tại và tỷ lệ tử vong liên quan đến các tác nhân chống ung thư.

VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Tác nhân

            AHCC, sản xuất bởi Amino Up Chemical Co., Ltd. (Japan), được sản xuất từ bào tử nuôi cấy của nấm đảm, Letinula edodes, trong quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn GMP dành cho thực phẩm bổ sung, và các tiêu chuẩn ISO9001 và ISO2200.Sau khi nuôi trong chai, nấm đảm được cấy vào các thùng lớn (15 tấn) trong 45 ngày, và sau đó thu AHCC bằng cách lọc, vô trùng, cô đặc và đông khô. Paclitaxel (TAX), doxorubicin (DXR) và cyclophosphamide 9CY) được mua từ Sigma-Aldrich Japan (Japan). Cisplatin (CDDP), 5-flourouracil (5FU) và irinotecan (CPT) là các thuốc thương mại tương ứng là Randa Inj. (NIPPON KAYAKY CO., LTD., Japan), 5-FU Injection (Kyowa Hakko Kirin Co., Ltd., Japan) và CAMPTO Inj. (YAKULT HONSHA CO., LTD., Japan),, và các thuốc này đều được mua từ JUNSEI CHEMICAL CO., LTD. (Japan).

Động vật

Chuột ddY đực SPF được mua từ Japan SLC, Inc. (Japan) và được nghiên cứu ở 5 tuần tuổi. Các động vật được nuôi trong phòng kiểm soát nhiệt độ (23 ± 1oC) và độ ẩm (55-60%), chu kỳ chiếu sáng 12 giờ (chiếu sáng từ 08:00 đến 20:00), và được cho ăn thức ăn viên tiêu chuẩn dành cho động vật gặm nhấm 9CE-2; CLEA Japan Inc., Japan) và nước ad libitum. Chuột ở mỗi thí nghiệm được chia thành 3 nhóm: nhóm đối chứng, chỉ dùng thuốc chống ung thư, và dùng thuốc chống ung thư kết hợp AHCC.

Điều trị

Các thuốc chống ung thư được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm TAX, CDDP, 5FU, CPT, DXR và CY. TAX hoặc CY được hòa tan trong DMSO và trộn với nước muối trước khi cung cấp. Các thuốc thương mại CDDP, 5FU hoặc CPTdạng dung dịch được tiêm trực tiếp cho chuột. DXR được hòa tan trong nước muối sau đó điều trị. AHCC được hòa tan trong nước muối ngay trước khi cung cấp. Các tác nhân chống ung thư và AHCC được cung cấp tương ứng dưới màng bụng và bằng ống thông. Nghiên cứu này bao gồm 5 thí nghiệm (Exp. 1 đến Exp. 5). Thiết kế thí nghiệm được phác thảo trong bảng 1. Tất cả các thí nghiệm có một nhóm nhóm đối chứng được điều trị với chế độ giống với các nhóm điều trị bằng thuốc chống ung thư có và không bổ sung AHCC, ngoại trừ việc chỉ cung cấp tá dược lỏng thay vì các thuốc chống ung thư và AHCC. Trong Exp.1, 15 mg/kg TAX dược cung cấp cho chuột và các ngày 8, 11, 15, 18 và 22 (tiêm tất cả 5 lần). AHCC được cung cấp hàng ngày với liều 500 mg/kg từ ngày 0 đến ngày 25. Trong Exp. 2, chuột được điều trị đồng thời bằng 20 mg/kg TAX và 8 mg/kg CDDP một lần một tuần trong 2 tuần (ngày 7 và 14). Bắt đầu bổ sung AHCC (1 g/kg) 7 ngày trước khi điều trị lần đầu bằng thuốc chống ung thư và tiếp tục cho đến ngày 18. Hai thí nghiệm (Exp. 3; 100 mg/kg 5FU cộng với 50 mg/kg CPT, và Exp. 4; 8 mg/kg CDDP cộng với 100 mg/kg 5FU) được tiến hành với lịch trình tương tự, trong đó hai thuốc được tiêm đồng thời vào ngày 7 và ngày 14, và cung cấp liên tục AHCC từ ngày 0 đến ngày 21. Trong Exp. 5, chuột được nhận một lần DXR (8 mg/kg) và CY (120 mg/kg) vào ngày 7, và bổ sung AHCC với liều 360 mg/kg từ ngày 0 đến ngày 21. Trong mỗi thí nghiệm, động vật được giải phẫu để thu máu và các tế bào tủy xương vào ngày cuối cùng cung cấp AHCC.

Trong các nghiên cứu trước đây, tác dụng của AHCC được đánh giá trong khoảng liều từ 100 mg/kg đến 1 g/kg (17-19, 24). Do vậy, liều sử dụng của AHCC trong nghiên cứu này dược chọn trong khoảng này. Liều và thời gian các thuốc chống ung thư được sử dụng trong nghiên cứu này dựa trên các nghiên cứu trước đây (25-29) với một số biến đổi. Tất cả các thí nghiệm được phê chuẩn bởi Ủy ban chăm sóc động vật của Amino Up Chemical Co., Ltd.

Bảng 1. Thiết kế nghiên cứu

Thí nghiệm số Điều trị Thời gian cấp thuốc(Liều dùng và ngày) Thời gian cấp AHCC(Liều dùng và ngày) Số lượng chuột
Exp. 1 TAX (a) a) 15 mg/kgNgày 8, 11, 15, 18 và 22 Không 8
a) 15 mg/kgNgày 8, 11, 15, 18 và 22 500 mg/kgNgày 0 đến 25 8
Exp. 2 TAXa) + CDDPb) a) 20 mg/kg + b) 8 mg/kgNgày 7 và 14 Không 9
a) 20 mg/kg + b) 8 mg/kgNgày 7 và 14 1 g/kgNgày 0 đến 18 9
Exp. 3 5FUc) + CPTd) c) 100 mg/kg + d) 50 mg/kgNgày 7 và 14 Không 10
c) 100 mg/kg + d) 50 mg/kgNgày 7 và 14 1 g/kgNgày 0 đến 21 10
Exp. 4 CDDP b) + 5FU c) b) 8 mg/kg + c) 100 mg/kgNgày 7 và 14 Không 10
b) 8 mg/kg + c) 100 mg/kgNgày 7 và 14 1 g/kgNgày 0 đến 21 11
Exp. 5 DXR e) + CY f) e) 8 mg/kg + f) 120 mg/kgNgày 7 Không 10
e) 8 mg/kg + f) 120 mg/kgNgày 7 360 mg/kgNgày 0 đến 21 10

a)TAX: paclitaxel,b)CDDP:cisplatin,c)5FU: 5-fluorouracil,d)CPT: irinotecan,e)DXR:doxonibicin,f)CY: cyclophosphamide.

 Đánh giá các thông số

Đánh giá các thông số sau: thể trọng, chức năng gan (AST và ALT trong huyết thanh), chức năng thận (ni tơ của urea trong máu (BUN) và creatinine huyết thanh), mất tủy xương (tổng số tế bào bạch cầu và khả năng sống sót tế bào tủy xương), và tỷ lệ tử vong. Thể trọng được đo 2 lần một tuần. AST (GOT) và ALT (GPT), BUN, và creatinine huyết thanh được đo tương ứng bằng các bột kit thí nghiệmTransaminase CII-test WAKO, Urea Nitrogen B-test WAKO, và Creatinine-test WAKO (Wako Pure Chemical Industries Limites, Japan).

Các mẫu máu thu được từ tim được pha loãng tới tỷ lệ 1:10 bằng dung dịch Turk (Wako Pure Chemical Indutries Limited, Japan) để xác định số lượng tế bào bạch cầu theo quy trình đếm buồng Nageotte (30). Tế bào tủy xương thu được từ xương đùi chuột được huyền phù hóa trong dung dịch NH4Cl 0.83% để hòa tan các tế bào hồng cầu và được ủ ở 37oC trong 10 phút. Sau khi ly tâm, các tế bào được chuẩn bị với nồng độ 1×107 tế bào/ml trong DMEM được bổ sung 10% FBS. Nuôi 100 µl huyền phù trong đĩa 96 giếng trong 3 ngày, và đánh giá khả năng sống sót tế bào tủy xương (phần trăm của nhóm nhóm đối chứng) bằng thử nghiệm MTT. Thu thập dữ liệu tỷ lệ tử vong hàng ngày.

Phân tích thống kê

Dữ liệu thí nghiệm ngoại trừ tỷ lệ tử vong được trình bày dạng các giá trị trung bình ± SEM. Phân tích dữ liệu bằng phương pháp phân tích phương sai một chiều (ANOVA). PLSD (Fisher’s Protected Least Significant Difference) được sử dụng như kiểm định “sau” (Post Hoc Test), và các giá trị p nhỏ hơn 0.05 được xem là có ý nghĩa thống kê.

KẾT QUẢ

Thay đổi thể trọng

Sự thay đổi thể trọng được tính toán là tỷ lệ giữa mức tăng thể trọng trong nhóm điều trị so với mức tăng thể trọng trong nhóm nhóm đối chứng tương ứng (không điều trị) vào ngày cuối cùng của mỗi thí nghiệm (hình 1). Thú vị là, việc điều trị bằng TAX độc lập làm tăng đáng kể thể trọng so với nhóm nhóm đối chứng và nhóm AHCC + TAX. Nguyên nhân tăng thể trọng có thể là do chứng táo bón vì ruột già bị căng phồng rõ rệt do phân khi giải phẫu chuột vào ngày 25. Việc cung cấp AHCC làm giảm sự tăng thể trọng do TAX, chứng tỏ AHCC có thể cải thiện rối loạn này. Tất cả các liệu pháp kết hợp nhiều thuốc làm giảm mức tăng thể trọng dự báo được khi so sánh với nhóm nhóm đối chứng tương ứng, với hầu hết chuột giảm rõ rệt mức tăng thể trọng được ghi nhận ở nhóm dùng kết hợp với CDDP (TAX + CDDP, và CDDP + 5FU). Việc cung cấp AHCC có xu hướng ngăn giảm thể trọng mặc dù tác dụng không có ý nghĩa thống kê. Vì TAX độc lập (liều 15 mg/kg lặp lại 5 lần; Exp. 1)làm tăng thể trọng, việc điều trị kết hợp nhiều thuốc với TAX (liều 20 mg/kg, 2 lần một tuần) + CDDP (Exp. 2) làm giảm thể trọng là không nhận thấy tình trạng táo bón khi giải phẫu động vật; có thể rằng sự khác biệt này là do TAX được sử dụng với liều thấp hơn trong thí nghiệm thứ 2.

Tác dụng gây độc gan và thận

Các mức AST và ALT huyết thanh tăng đáng kể ở nhóm TAX độc lập (p<0.05 so với nhóm đối chứng; bảng 2). Cung cấp AHCC làm giảm cả hai mức, với ALT giảm có ý nghĩa thống kê (p<0.05; bảng 2). Trái lại, điều trị bằng TAX + CDDP không làm thay đổi nồng độ AST và ALT huyết thanh, và tất cả các giá trị đều trong khoảng bình thường (dữ liệu không được trình bày). Như nêu trên, sự khác biệt giữa nhóm dùng TAX độc lập và nhóm TAX + CDDP có thể do TAX được dùng với liều khác nhau ở thí nghiệm 1 và 2.

Bảng 2. Mức AST và ALT huyết thanh ở cuối thí nghiệm 1

Tất cả các giá trị được trình bày dạng các giá trị trung bình ± SEM. a)p<0.05 so với nhóm đối chứng, b)p<0.05 so với TAX.

Ở người, điều trị bằng CDDP có thể dẫn đến rối loạn chức năng thận, đây là một yếu tố hạn chế liều. Trong nghiên cứu này, các thông số chức năng thận là BUN và creatinine huyết thanh được đánh giá ở hai nhóm điều trị kết hợp với CDDP vào cuối thí nghiệm 2 và 4. Nồng độ BUN và creatinine huyết thanh tăng đáng kể ở cả hai nhóm được điều trị bằng CDDP so với nhóm nhóm đối chứng (p<0.05; bảng 3). Việc cung cấp AHCC làm giảm mức BUN và creatinine huyết thanh, và có sự chênh lệch đáng kể ở cả mức BUN (Exp. 2 và Exp. 4) và creatinine (Exp. 2) đo được.

Mất tủy xương và tỷ lệ tử vong

Toàn bộ các nhóm điều trị bằng cách kết hợp hai thuốc chống ung thư điều bị mất tủy xương đáng kể khi đo số lượng hồng cầu và khả năng sống sót tế bào tủy xương (p<0.01 so với nhóm đối chứng; Hình 2A và 2B). Việc bổ sung AHCC làm tăng đáng kể sự giảm số lượng hồng cầu ở tất cả các nhóm ngoại trừ nhóm TAX + CDDP, vì các mức này không hoàn toàn trở về các giá trị nhóm đối chứng đối với bất kỳ quá trình điều trị nào. Khả năng sống sót tế bào cũng giảm ở các nhóm điều trị liều đơn và cả đa liều, và việc bổ sung AHCC làm đảo ngược đáng kể xu hướng này (p<0.01), mặc dù sự cải thiện không biểu hiện sự hồi phục hoàn toàn.

Các thuốc gây chết 20-30% động vật chỉ được cung cấp (các) thuốc chống ung thư, ngoại trừ đối với nhóm TAX + CDDP, và việc bổ sung AHCC làm giảm hoặc hạn chế tỷ lệ tử vong (Bảng 4).

Bảng 3. BUN, creatinine huyết thanh và tỷ lệ vào ngày cuối cùng của thí nghiệm 2 và 4

Tất cả các giá trị được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± SEM. a)p<0.0l so với nhóm mẫu chứng, p<0.05 so với nhóm AHCC+TAX+CDDP, b) p<0.01so với nhóm mẫu chứng, AHCC+TAX+CDDP, c) p<0.05  so với nhóm mẫu chứng,d)p<0.01 so với nhóm mẫu chứng, AHCC+CDDP+ 5FU, e) p<0.01 so với nhóm mẫu chứng.

 

Hình 2. Tác dụng cải thiện tình trạng suy tủy do thuốc chống ung thư của AHCC

Tình trạng mất tủy được xác định bằng hai thông số là tổng số lượng bạch cầu (WBC) (A) và khả năng sống sót trế bào tủy xương (B). Cả hai đánh giá được tiến hành khi giải phẫu chuột vào cuối thí nghiệm, và phương pháp đánh giá được mô tả trong mục  Vật liệu và phương pháp. Các giá trị được trình bày là tỷ lệ so với nhóm đối chứng (% so với nhóm đối chứng). * p<0.01 so với nhóm đối chứng, ** P<0.01 so với nhóm đối chứng, P<0.05 so với nhóm bổ sung AHCC, # p<0.01 so với nhóm đối chứng, nhóm bổ sung AHCC.

Bảng 4. Tỷ lệ tử vong ở nhóm điều trị có và không có AHCC

 

Các giá trị trong dấu ngoặc là tỷ lệ chuột tử vong/tổng số chuột.

THẢO LUẬN

Điều trị ung thư bằng hóa trị liệu đơn hoặc đa thuốc chắc chắn cải thiện tỷ lệ khỏi bệnh và sống sót ở các bệnh nhân ung thư, nhưng hiệu quả lâm sàng thường bị hạn chế bởi các tác dụng phụ. Nghiên cứu này được thiết kế để khảo sát tác động của AHCC lên các tác dụng phụ do thuốc chống ung thư ở mẫu động vật.

Ở người, các tác dụng phụ liên quan đến TAX chính bao gồm bệnh thần kinh ngoại vi, ức chế tủy xương, giảm bạch cầu hạt, nhịp tim chậm, hạ huyết áp, đau khớp, đau cơ và quá mẫn (31,32). Các tác dụng phụ này không giống trong thí nghiệm 1, nhưng các tác dụng phụ quan sát được bao gồm táo bón, gây độc gan và mất tủy xương. Việc cung cấp AHCC cải thiện đáng kể tác dụng gây độc gan và mất tủy xương và có xu hướng giảm mức độ nghiêm trọng của chứng táo bón. Bên cạnh đơn trị liệu, hiện nay để trị liệu ung thư người ta còn sử dụng chiến lược kết hợp nhiều thuốc chống ung thư với cơ chế phân tử khác biệt, nhằm tạo ra hiệu lực hóa trị liệu cao hơn và/hoặc giảm tác dụng gây độc. Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng đánh giá tác động của AHCC lên bốn phương pháp điều trị kết hợp, vì các liệu pháp kết hợp nhiều thuốc được thí nghiệm ở đây hiện được sử dụng rộng rãi để điều trị ung thư phổi tế bào không nhỏ (33,34), và ung thư buồng trứng (35), ung thư ruột kết (36), ung thư dạ dày-ruột non (37), ung thư gan (38), ung thư cổ tử cung (39) và ung thư vú (40) như phương pháp điều trị dòng đầu hoặc dòng hai. Tác dụng đáng chú ý nhất của AHCC là làm tăng mức hồng cầu (mặc dù không tăng đối với TAX + CDDP) và khả năng sống sót tế bào tủy xương. Tỷ lệ tỷ vong cũng được cải thiện đáng kể khi cung cấp AHCC ở hầu hết các thí nghiệm, chứng tỏ AHCC có thể làm giảm toàn thân tác dụng gây độc liên quan đến thuốc chống ung thư.

Một trong các tác dụng phụ nghiêm trọng nhất trong hóa trị liệu ung thư là giảm bạch cầu bao gồm giảm bạch cầu trung tính, thường gây ra các biến chứng do nhiễm trùng, và dẫn đến hạn chế liều, mà có thể ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị. Nhiễm trùng cơ hội là nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh nhân ung thư nhận hóa trị liệu gây suy tủy, dẫn đến nhiễm trùng da nấm xâm lấn, đặc biệt là nhiễm trùng hô hấp do aspergillus xâm lấn, và gia tăng sự phát triển của các vi khuẩn Gram-âm như Staphylococcus aureus kháng methicillin và enterococci kháng vancomycin (41). Trong thực hành lâm sàng hiện nay, các yếu tố kích thích cụm như yếu tố kích thích cụmbạch cầu hạt (G-CSF) và yếu tố kích thích cụm bạch cầu hạt – đại thực bào (GM-CSF) ngày càng được sử dụng nhiều để khôi phục số lượng tế bào bạch cầu hoặc tăng mật độ liều (42-44). Mặc dù G-CSF và GM-CSF nói chung an toàn và được dung nạp tốt và cho hiệu quả cao, đã có nhiều báo cáo về tác dụng phụ liên quan đến G-CSF và GM-CSF (45-49). Gần đây, G-CSF được báo cáo là làm tăng tốc độ sinh trưởng khối u xương ở chuột theo cách phụ thuộc tế bào hủy xương (50). Các kết quả của nghiên cứu này cho thấy AHCC có khả năng cải thiện tình trạng suy tủy xương, và AHCC có thể hữu ích để bổ sung cho các tính chất của G-CSF và GM-CSF. Tuy nhiên, cơ chế tác dụng của AHCC làm giảm tính trạng suy tủy xương vẫn chưa rõ ràng. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng các polysaccharide như β-glucan giúp giảm tính trạng suy tủy xương và tăng tạo máu in vitro và khả năng di động của các tế bào mần ở các mẫu động vật (51-53). Maitake β-glucan 9MBG) được nhận thấy là thúc đẩy sự sống sót tế bào tủy xương và bảo vệ đơn vị hình thành cụm tế bào mần tủy xương khỏi tác dụng gây độc quá trình tạo huyết do DXR (54). Nghiên cứu gần đây đã báo cáo rằng MBG làm tăng sinh và biệt hóa tế bào mần tạo máu và tác động để thay thế và sinh ra G-CSF (55). Ước đoán rằng tác dụng của AHCC cải thiện tình trạng suy tủy có thể được trung gian bởi cơ chế tương tự như MBG mặc dù thành phần polysaccharide trội hơn của AHCC một phần là các α-glucan được acetyl hóa chứ không phải β-glucan. Trong tương lai, cần các nghiên cứu khác để giải thích cơ chế chính xác của tác đông cải thiện tình trạng suy tủy xương cũng như tác dụng gây độc gan và thận.

Với việc sử dụng ngày càng nhiều CAM, điều quan trọng là nhắm vào các vấn đề an toàn và tương tác giữa các sản phẩm CAM và các phương pháp điều trị truyền thống (56,57) vào hóa trị liệu, phẫu thuật cắt bỏ, xạ trị, và các liệu pháp phân tử hướng đích. Tính an toàn của AHCC ở bệnh nhân ung thư và tình nguyện viên khỏe mạnh đã được báo cáo trước đây (15, 16, 20, 22, 23).  Nghiên cứu này đánh giá vai trò của AHCC trong việc làm giảm các tác dụng phụ liên quan đến AHCC ở mẫu động vật chứng tỏ rằng AHCC có thể an toàn để cung cấp cùng với các thuốc được thí nghiệm, và có thể các tác nhân hóa trị liệu khác không bị chuyển hóa thông qua con đường CYP450 2D6 (21). Đối với nhiều bệnh nhân ung thư, theo đuổi phương pháp sử dụn CAM là một nỗ lực để tối đa hiệu quả của các phương thức truyền thống, cũng như giảm các triệu chứng do điều trị và các tác dụng phụ khác mà có thể làm giảm chất lượng sống (10-14). Các bệnh nhân ung thư cũng sử dụng các sản phẩm CAM như AHCC để tăng cường chức năng cơ thể nhằm khôi phục tình trạng suy nhược do điều trị ung thư và hỗ trợ khả năng chống ung thư (58-60).

KẾT LUẬN

Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá xem liệu AHCC có làm giảm độc tính do các thuốc chống ung thư hai không, bao gồm giảm thể trọng, tổn thương gan và thận, suy tủy, và tử vong ở chuột không mang khối u. Kết quả là, AHCC cải thiện đáng kể độc tính trên gan, thận, tình trạng mất tủy xương và tỷ lệ tử vong, và biểu hiện khả năng làm giảm mức độ nghiêm trọng của chứng táo bón. Nếu các kết quả này được mở rộng ở người, AHCC có thể góp phần cải thiện chất lượng sống và tinh thần của các bệnh nhân ung thư chịu hóa trị liệu.